Những khía cạnh pháp luật Trạm_vũ_trụ_Quốc_tế

Thỏa thuận

Trang bìa của Hiệp định Tồn tại Trạm vũ trụ được ký vào ngày 28 tháng 1 năm 1998

Kết cấu pháp lý đã quy định việc xây dựng trạm vũ trụ được phân thành nhiều phần. Phần đầu tiên được soạn thảo nhằm mục đích thiết lập những trách nhiệm và quyền lợi giữa những đối tác xây dựng trạm ISS theo Hiệp định Tồn tại Trạm vũ trụ (IGA), một hiệp ước quốc tế được ký vào ngày 28 tháng 1 năm 1998 bởi 15 chính phủ có liên quan đến dự án Trạm vũ trụ. Gồm có Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Liên bang Nga và 11 thành viên khác thuộc Cơ quan Vũ trụ châu Âu (Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy SĩAnh). Điều 1 đã thảo ra những nét chính của mục đích dự án:

"Hiệp định này là một khung hợp tác quốc tế dài hạn trên cơ sở của quan hệ đối tác xác thực, đối với thiết kế chi tiết, sự phát triển, hoạt động, và sử dụng trạm vũ trụ dân sự có người ở lâu dài với mục đích hòa bình, theo luật pháp quốc tế"[35].

Phần thứ hai của hiệp định IGA đặt ra giai đoạn hợp tác giữa những thành viên ký hiệp định được đề cập với tên gọi "Biên bản ghi nhớ" (Memoranda of Understanding - MOU), nêu ra 4 vấn đề hợp tác giữa NASA và mỗi đối tác trong 4 đối tác khác. Không có biên bản giữa ESA, Roskosmos, CSA và JAXA vì thực tế NASA được coi như là "giám đốc" của dự án ISS. MOU được sử dụng để miêu tả những vai trò và trách nhiệm của những đối tác chi tiết hơn.

Phần thứ 3 gồm có sự thay đổi những thỏa thuận bằng hợp đồng hay dịch vụ thương mại trong quyền lợi và nhiệm vụ của các đối tác, bao gồm thỏa thuận khung thương mại giữa NASA và Roskosmos vào năm 2005, nó có 4 điều khoản và điều kiện theo sau, trong đó NASA sẽ sử dụng khả năng vận chuyển phi hành đoàn, hàng hóa của tàu vũ trụ Soyuz và tàu không người lái Tiến bộ để chuyên chở lên trạm ISS.

Phần pháp lý thứ 4 là những thỏa thuận thi hành và bổ sung, gồm 4 Biên bản ghi nhớ nữa. Đáng chú ý trong số đó là luật lệ quản lý ISS, được đặt ra để các quy định về quyền xét xử người phạm tội, chống quấy nhiễu và một số hành vi khác liên quan đến phi hành đoàn trên ISS[36].

Phân chia quyền lợi sử dụng

Cửa số ở điểm thấp nhất trong phòng thí nghiệm DestinyMôđun Zarya

Không có tỷ lệ phần trăm cố định trong quyền sở hữu đối cho toàn bộ trạm vũ trụ. Điều 5 của hiệp định IGA đã chỉ ra điều đó: "mỗi đối tác sẽ được giữ quyền hạn và quyền kiểm soát đối với các yếu tố được đăng ký và đối với nhân sự trong hoặc trên Trạm vũ trụ thuộc quốc gia của mình"[35]. Bởi vậy, mỗi mô-đun của ISS chỉ có duy nhất một quốc gia có quyền sở hữu. Còn những thỏa thuận để sử dụng những phương tiện trên trạm vũ trụ phức tạp hơn rất nhiều.

Ba mô-đun trong kế hoạch của người Nga là Zvezda, Mô-đun Phòng thí nghiệm Vạn năngMô-đun Nghiên cứu Nga, chúng đều được chế tạo và sở hữu bởi Liên bang Nga, và chúng sẽ vẫn do Nga sở hữu trong thời điểm hiện nay và tương lai (Zarya, dù được thiết kế chế tạo và phóng lên không gian bởi Nga, nhưng kinh phí lại do NASA chi trả, do đó chính thức thì Zarya thuộc về quyền sở hữu của NASA). Để sử dụng những bộ phận của Nga trên trạm, những đối tác khác sẽ phải sử dụng hiệp ước song phương (phần thứ 3 và 4 trong kết cấu pháp lý). Phần còn lại của trạm, (môđun điều áp của Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản cũng như những giàn đỡ, các tấm pin năng lượng mặt trời và 2 cánh tay máy) đã được thỏa thuận sử dụng theo tỷ lệ sau (tỷ lệ % phụ thuộc thời gian mà mỗi kết cấu có thể được sử dụng bởi mỗi đối tác):

  1. Columbus: 51% cho ESA, 49% cho NASACSA (CSA đã thỏa thuận với NASA để sử dụng 2,3% công trình không thuộc sở hữu của Nga trên ISS)
  2. Kibo: 51% cho JAXA, 49% cho NASA và CSA (2,3%)
  3. Phòng thí nghiệm Destiny: 100% cho NASA và CSA (2,3%)
  4. Thời gian phi hành đoàn lưu lại và năng lượng từ kết cấu pin mặt trời, cũng như quyền lợi liên quan đến dịch vụ hỗ trợ (dịch vụ tải lên/tải xuống dữ liệu và thông tin liên lạc) 76,6% cho NASA, 12.8% cho JAXA, 8,3% cho ESA và 2,3% cho CSA